(544 - 602)
Năm Tân Dậu (541) là năm Đại Đồng thứ 7 đời vua Vũ Đế nhà Lương, ở huyện Thái Bình16 có một người tên là Lý Bôn, tài kiêm văn võ, thấy nước mình, trong thì quan lại Tàu làm khổ, ngoài thì người Lâm Ấp cướp phá, bèn cùng với những người nghĩa dũng nổi lên, đánh đuổi Tiêu Tư về Tàu, rồi chiếm giữ lấy thành Long Biên.
Lý Bôn, có người gọi là Lý Bí, vốn dòng dõi người Tàu. Tổ tiên ở đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang Giao Châu, đến lúc bấy giờ là bảy đời, thành ra người bản xứ. Khi chiếm giữ được đất Giao Châu rồi, ông sửa sang mọi việc, định lập nghiệp lâu dài. Qua năm Quí Hợi (543) quân Lâm Ấp lại sang phá quận Nhật Nam, Lý Bôn sai tướng là Phạm Tu vào đánh ở Cửu Đức (Hà Tĩnh), người Lâm Ấp thua chạy về nước.
Năm Giáp Tí (544) đời nhà Lương bên Tàu, ông Lý Bôn tự xưng là Nam Việt Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, niên hiệu là Thiên Đức, rồi phong cho Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, và Phạm Tu là tướng võ.
Năm Ất Sửu (545) vua nhà Lương sai Dương Phiêu sang làm thứ sử Giao Châu, và sai Trần Bá Tiên đem quân sang đánh Nam Việt. Lý Nam Đế thua phải bỏ thành Long Biên chạy về giữ thành Gia Ninh (huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên). Trần Bá Tiên đem quân lên vây thành Gia Ninh, Lý Nam Đế chạy về giữ thành Tân Xương, tức là đất Phong Châu cũ thuộc tĩnh Vĩnh Yên bây giờ.
Nhà Lương lại tiến lên đuổi đánh, Lý Nam Đế thấy thế mình yếu, chống không nổi, mới rút quân lên đóng ở động Khuất Liêu (thuộc đất Hưng Hóa), để đợi thu xếp được quân sĩ lại ra đánh. Được non một năm, Lý Nam Đế đem hai vạn quân ra đánh nhau với Trần Bá Tiên ở hồ Điển Triệt (?), lại thua. Lý Nam Đế bèn giao binh quyền lại cho tả tướng quân Triệu Quang Phục chống nhau với quân nhà Lương rồi trở về Khuất Liêu.
Triệu Quang Phục là con quan thái phó Triệu Túc người ở Châu Diên (Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên) theo cha giúp Lý Nam Đế lập được nhiều công, nay đem quân chống cự với nhà Lương được ít lâu, rồi sau thấy thế quân Tàu còn mạnh, địch không nổi, bèn rút quân về Dạ Trạch17. Dạ Trạch là chỗ đồng lầy, chung quanh cỏ mọc như rừng, ở giữa có bãi cát làm nhà ở được. Triệu Quang Phục vào ở đấy, ngày nấp ẩn, tối thì cho lính chở thuyền độc mộc ra đánh quân của Trần Bá Tiên, cướp lấy lương thực về nuôi quân sĩ. Trần Bá Tiên đánh mãi không được. Người thời bấy giờ gọi Triệu Quang Phục là Dạ Trạch Vương.
Năm Mậu Thìn (548) Lý Nam Đế ở trong Khuất Liêu phải bệnh mất, sang năm sau Triệu Quang Phục ở Dạ Trạch được tin ấy bèn xưng là Việt Vương. Bấy giờ quân của Việt Vương đã sắp hết lương, mà mãi không phá được quân Tàu. May nhờ gặp lúc bên Tàu có loạn Hầu Cảnh, vua nhà Lương phải triệu Trần Bá Tiên về để người tì tướng là Dương Sân ở lại chống cự với Triệu Quang Phục. Quang Phục mới thừa thế đem quân ra đánh phá quân Tàu, rồi về lấy lại thành Long Biên.
Khi Lý Nam Đế thất thế chạy về Khuất Liêu thì người anh họ là Lý Thiên Bảo cùng với người họ là Lý Phật Tử đem quân chạy vào quận Cửu Chân, rồi bị quân nhà Lương đuổi đánh chạy sang Lào, đến đóng ở động Dã Năng, xưng là Đào Lang Vương, quốc hiệu là Dã Năng.
Năm Ất Hợi (555) là năm thứ 7 đời Triệu Việt Vương, Lý Thiên Bảo mất, không có con, binh quyền về cả Lý Phật Tử. Đến năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về chống với Triệu Việt Vương. Đánh nhau mấy trận không được, Phật Tử mới xin chia đất giảng hòa. Triệu Việt Vương nghĩ tình họ Lý, cũng thuận chia đất cho Lý Phật Tử.
Lý Phật Tử đóng ở Ô Diên (nay ở vào làng Đại Mỗ, thuộc huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông). Triệu Việt Vương đóng ở Long Biên, lấy bãi Quân Thần làm giới hạn (bãi ấy thuộc làng Thượng Các, huyện Từ Liêm). Triệu Việt Vương lại gả con gái cho Phật Tử để tỏ tình hòa hiếu với nhau. Nhưng Phật Tử vẫn có ý muốn thôn tính, bởi vậy bề ngoài tuy hòa hiếu, nhưng bề trong vẫn sửa soạn để đánh lấy Long Biên.
Năm Tân Mão (571), Phật Tử bất thình lình đem quân đánh Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương thua chạy đến sông Đại Nha (nay ở huyện Đại An, tỉnh Nam Định), nhảy xuống sông tự tận. Người ở đấy cảm nhớ Triệu Việt Vương, mới lập đền thờ ở chỗ sông Đại Nha. Nay còn có đền thờ ở làng Đại Bộ, gần huyện Đại An.
Lý Phật Tử lấy được thành Long Biên rồi, xưng đế hiệu, đóng đô ở Phong Châu (thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), sai Lý Đại Quyền giữ Long Biên và Lý Phổ Đỉnh giữ Ô Diên.
Trong khi Lý Phật Tử làm vua ở Nam Việt thì vua Văn Đế nhà Tùy đã gôm cả Nam Bắc, nhất thống nước Tàu. Đến năm Nhâm Tuất (602) vua nhà Tùy sai tướng là Lưu Phương đem quân 27 doanh sang đánh Nam Việt.
Lưu Phương sai người lấy lẽ họa phúc để dụ Lý Phật Tử về hàng. Hậu Lý Nam Đế sợ thế không địch nổi bèn xin về hàng.
Từ đấy đất Giao Châu lại bị nước Tàu cai trị 336 năm nữa.
16 Cứ theo sách "Khâm Định Việt Sử" thì huyện Thái Bình thuộc về Phong Châu ngày trước, nay ở vào địa hạt tỉnh Sơn Tây nhưng mà không rõ là chỗ nào, chứ không phải là phủ Thái Bình ở Sơn Nam mà bây giờ là tỉnh Thái Bình.
17 Bây giờ thuộc phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
(544 - 602)
In the year Tan Dau (541), the 7th year of Dai Dong under the reign of Emperor Vu De of the Liang Dynasty, in Thai Binh district16 there was a man named Ly Bon, talented in both literature and martial arts. Seeing that his country was being tormented by Chinese officials inside and looted by Lam Ap people outside, he rose up with the brave people, drove Tieu Tu back to China, and then occupied Long Bien citadel.
Ly Bon, also known as Ly Bi, was of Chinese descent. His ancestors in the Western Han Dynasty had to flee to Giao Chau to avoid chaos, and by then it had been seven generations, so he became a native. After occupying Giao Chau, he fixed everything, intending to establish a long-term career. In the year Quy Hoi (543), the Lam Ap army again attacked Nhat Nam district. Ly Bon sent his general Pham Tu to attack Cuu Duc (Ha Tinh), the Lam Ap people were defeated and fled back to their country.
In the year of Giap Ty (544) of the Liang Dynasty in China, Mr. Ly Bon proclaimed himself Emperor of Nam Viet, named the country Van Xuan, and named the reign Thien Duc. He then appointed Trieu Tuc as Grand Tutor, Tinh Thieu as civil general, and Pham Tu as military general.
In the year At Suu (545), the Liang Dynasty king sent Duong Phieu to be the governor of Giao Chau, and sent Tran Ba Tien to lead troops to attack Nam Viet. Ly Nam De was defeated and had to abandon Long Bien citadel and flee to defend Gia Ninh citadel (Yen Lang district, Phuc Yen province). Tran Ba Tien led troops to besiege Gia Ninh citadel, Ly Nam De fled to defend Tan Xuong citadel, which is the old Phong Chau land in Vinh Yen province now.
The Liang Dynasty advanced to attack again, Ly Nam De saw that his position was weak and could not resist, so he withdrew his troops to station in Khuat Lieu cave (in Hung Hoa land), waiting to arrange his troops to fight again. After nearly a year, Ly Nam De led twenty thousand troops to fight with Tran Ba Tien at Dien Triet lake (?), and lost again. Ly Nam De then handed over military power to the left general Trieu Quang Phuc to fight with the Liang army and then returned to Khuat Lieu.
Trieu Quang Phuc was the son of the Grand Tutor Trieu Tuc from Chau Dien (Vinh Tuong, Vinh Yen province). He followed his father to help Ly Nam De and made many achievements. Now he led his army to resist the Liang Dynasty for a while, then saw that the Chinese army was still strong and could not defeat the enemy, so he withdrew his army to Da Trach17. Da Trach was a swampy place, surrounded by grass growing like a forest, in the middle there was a sandy beach where he could build a house. Trieu Quang Phuc lived there, hiding during the day, and at night he sent soldiers to use dugout canoes to attack Tran Ba Tien's army, stealing food to feed his soldiers. Tran Ba Tien fought for a long time but could not win. People at that time called Trieu Quang Phuc Da Trach Vuong.
In the year Mau Thin (548), Ly Nam De was in Khuat Lieu and fell ill and died. The following year, Trieu Quang Phuc in Da Trach heard the news and declared himself Viet Vuong. At that time, Viet Vuong's army was almost out of food, and he could not defeat the Chinese army. Fortunately, there was a rebellion in China under Hau Canh, so the Liang king had to summon Tran Ba Tien back, leaving his general Duong San to fight against Trieu Quang Phuc. Quang Phuc took advantage of the situation to send his army to defeat the Chinese army, then returned to take back Long Bien citadel.
When Ly Nam De lost power and fled to Khuat Lieu, his cousin Ly Thien Bao and his relative Ly Phat Tu led their army to Cuu Chan district, then were chased by the Liang army and fled to Laos, where they camped at Da Nang cave, claiming to be Dao Lang Vuong, with the national title of Da Nang.
In the year At Hoi (555), the 7th year of Trieu Viet Vuong's reign, Ly Thien Bao died, had no children, and the military power was transferred to Ly Phat Tu. In the year Dinh Suu (557), Ly Phat Tu brought troops to fight against Trieu Viet Vuong. After several battles without success, Phat Tu asked to divide the land and make peace. Trieu Viet Vuong thought of the Ly family's relationship and agreed to divide the land for Ly Phat Tu.
Ly Phat Tu stationed at O Dien (now in Dai Mo village, Tu Liem district, Ha Dong province). Trieu Viet Vuong stationed at Long Bien, using Quan Than beach as the border (that beach belongs to Thuong Cac village, Tu Liem district). Trieu Viet The king married his daughter to Phat Tu to show his friendship with each other. But Phat Tu still wanted to annex, so although on the surface they were friendly, on the inside they still prepared to attack and take Long Bien.
In the year Tan Mao (571), Phat Tu suddenly brought troops to attack Trieu Viet Vuong. Trieu Viet Vuong lost and fled to Dai Nha River (now in Dai An District, Nam Dinh Province), jumped into the river and committed suicide. People there remembered Trieu Viet Vuong and built a temple at Dai Nha River. Today, there is still a temple in Dai Bo village, near Dai An District.
Ly Phat Tu took Long Bien citadel, proclaimed himself emperor, established the capital in Phong Chau (in Bach Hac district, Vinh Yen province), ordered Ly Dai Quyen to guard Long Bien and Ly Pho Dinh to guard O Dien.
While Ly Phat Tu was king in Nam Viet, King Van De of the Sui Dynasty had already taken over the whole of the North and South, unifying China. In the year Nham Tuat (602), the King of the Sui Dynasty sent general Luu Phuong to lead 27 army camps to attack Nam Viet.
Luu Phuong sent people to use the principle of good and bad luck to lure Ly Phat Tu to surrender. Later Ly Nam De was afraid that he would not be able to resist, so he asked to surrender.
From then on, Giao Chau was ruled by China for another 336 years.
16According to the book "Kham Dinh Viet Su", Thai Binh district belonged to Phong Chau in the past, now it is in Son Tay province but it is not clear where, it is not Thai Binh district in Son Nam but now Thai Binh province.
17Now it belongs to Khoai Chau district, Hung Yen province.